Kinh Giới

KINH GIỚI là dùng lá tươi hoặc khô, ngọn có hoa (kinh giới tuệ) của cây Kinh giới Elsholtzia cililata (Thunb.). Họ Hoa môi Lamiaceae.

Tính vị: vị cay, tính ấm

Quy kinh: vào 2 kinh phế và can

Công năng chủ trị

– Giải cảm hàn ra mồ hôi; dùng để trị các bệnh ngoại cảm phong hàn (có thể dùng cho cả ngoại cảm phong nhiệt) có thể phối hợp với tía tô, bạch chỉ (dùng kinh giới tuệ, tác dụng mạnh hơn) trong cảm mạo phong hàn, hoặc phối hợp với ngưu bàng tử, bạc hà, liên kiều, cúc hoa, trong cảm mạo phong nhiệt.

– Giải độc, làm cho sởi đậu mọc, phối hợp với cát căn, ngưu bàng, thuyền thoái. Trị dị ứng mẩn ngứa, dùng kinh giới sao vàng sắc uống; hoặc sao lá kinh giới với cám rồi sát nhẹ trên chỗ bị da ngứa.

– Khí ứ, chỉ huyết (cầm máu). Với tính chất cầm máu kinh giới phải đem sao cháy, đặc biệt là cầm máu tử cung, đại tiện ra máu, chảy máu cam, băng lậu… thời gian phụ nữ có kinh nguyệt mà bị cảm mạo dùng kinh giới sao, uống rất tốt, có thể phối hợp với các vị cầm máu khác để tăng hiệu quả trị liệu.

– Khử phong chỉ kinh: dùng trong trúng phong cấm khẩu. Khi bị trúng phong toàn thân tê dại, bất tỉnh, chân tay nặng nề, mặt, mắt, miệng méo xệch. Dùng hoa kinh giới 10g (dùng khô), tán bột, rượu trắng 20ml mỗi lần uống 5g với nước sôi để nguội và rượu. Hoặc dùng kinh giới tươi 100g cùng với bạc hà tươi 100g. Lấy dịch cốt của hai thứ này trộn đều mỗi lần uống hai thìa cà phê, uống dần trong ngày. Phương pháp này còn cùng để chữa bệnh trúng thử.

– Lợi đại tiểu tiện: dùng khi đại tiểu tiện bí đáo; phối hợp với địa hoàng lượng bằng nhau 12g. Nếu tiểu tiện bí thì giảm đại hoàng đi 1/2; nếu bí đại tiện giảm kinh giới đi 1/2, uống với nước ấm.

Liều dùng: 4 -16g. Tươi có thể 100g.

Kiêng kỵ: những bệnh động kinh, sởi đậu mọc, mụn nhọt đã vỡ thì không nên dùng.

Chú ý:

– Tác dụng dược lý: kinh giới có tác dụng kích thích tuyến mồ hôi, xúc tiến tuần hoàn máu và da. Điều đó giải thích tính phát hãn, giải biểu của vị thuốc.

– Tác dụng kháng khuẩn: kinh giới có tác dụng ức chế sự sinh trưởng của trực khuẩn lao. Tuy nhiên về mặt lâm sàng còn rất ít dùng để trị lao. Cần chú ý nghiên cứu thêm về khía cạnh này.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Xem Nhiều Nhất