LÔ CĂN là rễ cây lau Phramites communis (L) Trin. Hoặc đoạn thân sát gốc cũng có thể
dùng làm thuốc. Họ Lúa Poaceae
Tính vị: vị ngọt, tính hàn
Quy kinh: nhấp vào 2 kinh phế và vị
Công năng chủ trị
– Thanh nhiệt sinh tân dịch, lợi niệu. Thuốc có vị ngọt có thể sinh tân dịch. Tính hàn có thể thanh nhiệt, có khả năng lợi niệu để bài trừ nhiệt thông qua tiểu tiện, dùng đối với bệnh nhiệt, tâm phiền, miệng khát, tiểu tiện ngắn đỏ, có thể phối hợp với đạm trúc diệp, mạch môn đông. Nếu tân dịch thương tổn, có thể dùng dịch ép của lô căn tươi cùng với mạch môn.
– Thanh phế nhiệt: dùng trong trường hợp phong thấp phạm phế nhiệt sinh ho, có thể phối hợp với kim ngân, liên kiều, tang diệp, cúc hoa, còn dùng để trị phế có mủ, phối hợp với ý dĩ, đào nhân, hạt bí đao.
– Thanh trừ nhiệt ở vị, làm hết nôn: dùng với trường hợp vị nhiệt gây nôn lợm, nấc, có thể phối hợp với trúc nhự, tỳ bà diệp.
Liều dùng: 4-16g
Chú ý:
– Tác dụng dược lý: thân và rễ lô căn có tác dụng giống nhau, nhưng lực thanh phế của thân mạnh hơn so với rễ. Có tác dụng hòa tan sỏi mật, có thể trị hoàng đản và viêm khớp cấp tính.