NGẢI DIỆP dùng lá của cây ngải cứu Artemisia vulgaris L. Họ Cúc Asteraceae
Tính vị: vị đắng, cay, tính ấm
Quy kinh: vào 2 kinh can, vị
Công năng chủ trị:
– Chỉ huyết, ấm kinh tán hàn, dùng trong các trường hợp kinh nguyệt không đều, có kinh đau bụng, phối hợp với hương phụ, bạch đồng nữ, trần bì.
– Giải cảm mạo, dùng khi cảm mạo phong hàn đau đầu, mũi ngạt, dùng phối hợp với các vị thuốc khác để xông hoặc uống. Khi đau đầu dữ dội có thể tiến hành xông lót gạch như sau: nung một viên gạch cho nóng, đặt lớp ngải cứu tươi, rưới một chén rượu trắng lên lớp ngải cứu, gối nhẹ phần đầu bị đau nhức lên, phía trên trùm khăn cho kín.
– Giảm đau, dùng chữa kiết lỵ, ỉa chảy, đau bụng, lá ngải cứu non, tươi thái nhỏ, trộn đều với trứng gà, nướng ăn (kiểu ăn phồng lá mơ); cũng có thể sắc uống với trần bì, lượng bằng nhau.
– An thai, khi có thai động, chảy máu, phối hợp với củ gai, tô ngạnh, bạch truật sắc uống. Trong trường hợp đẻ ngược hoặc thai chết, dùng lá ngải cứu tươi 40g vò lấy dịch pha thêm rượu mà uống.
– Sát khuẩn lên da non: dùng trong các trường hợp bị bỏng, dùng lá tươi giã nát đắp vào chỗ bị bỏng, chỗ bỏng sẽ không bị phồng dộp (dùng ngải cứu tím thì tốt hơn), dùng lá tươi đắp lên vết thương có tác dụng lên da non, ngoài ra còn dùng lá tươi đắp lên vết thương có tác dụng lên da non, ngoài ra còn dùng lá tươi trị giun đũa, sắc lá tươi 40g uống vào buổi sáng lúc đói.
– An thần, dùng rễ ngải cứu uống dưới dạng thuốc sắc đễ chữa động kinh.
– Kiện tỳ, ngải cứu có tác dụng kích thích tiêu hóa, ăn ngon cơm.
Liều dùng: 4-12g
Chú ý:
– Với tính chất ôn trung, ngải diệp dùng sống, với tính chất an thai, trích rượu sao vàng, với tính chất chỉ huyết ngải diệp thán sao.
– Lá ngải diệp phơi khô tán bột làm ngải nhung dùng làm thuốc cứu trên huyệt vị hoặc chỗ đau. Tránh nhầm lẫn với cây ngải xanh (Artemisia absinthium).Tuy nhiên cây này có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn hạ sốt, trị sốt rét, bảo vệ gan. Dịch chiết ngải xanh làm giảm men gan SGOT, SGPT (động vật thí nghiệm), kéo dài giấc ngủ (chuột) với Pentobarbital.
– Tác dụng dược lý: tinh dầu ngải diệp có tác dụng trấn ho, khử đờm, giãn cơ trơn của khí quản chuột lang, đối kháng với acetylcholin, nước sắc tăng tiết mật.
– Tác dụng kháng khuẩn: tinh dầu ngải diệp có tác dụng ức chế một số vi khuẩn; ngoài cây ngải cứu nói trên, còn có cây ngải xanh Artemisia absinthium, lá phía dưới có màu xanh, ở Liên Xô (cũ) có dùng để kích thích tiêu hóa, lợi mật, tuy nhiên ở Việt Nam còn ít dùng; cần chú ý nghiên cứu. Tinh dầu có tác dụng diệt lỵ amip và ức chế Diplococcus pneumoniae, Mycobacterium tuberlulosis, Proteus vulgaris, Salmonella typhi, Shi.dysenteriae, Shi.flexneri, B.subtilis, B.mycoides, Bacterium Pyoeyaneuz.